Đô la Tây Ban Nha, còn được gọi là "mảnh tám" (
Tiếng Tây Ban Nha: Real de a ocho, Dólar, Peso duro, Peso fuerte hoặc Peso), là một đồng xu bạc có đường kính khoảng 38 mm (1,5 in) có tỷ giá quy đổi bằng 8 đồng
Real Tây Ban Nha. Nó được đúc trong lãnh thổ
Đế quốc Tây Ban Nha sau cuộc cải cách tiền tệ năm 1497.Đô la Tây Ban Nha được sử dụng rộng rãi như đơn vị tiền tệ thanh toán thương mại quốc tế. Một số quốc gia đã cho đóng dấu ngược (countermarked) lên xu này để sử dụng làm nội tệ của quốc gia mình.
[1]Đô la Tây Ban Nha chính là đồng tiền tiêu chuẩn mà đồng Đô la Mỹ đầu tiên đã nương theo, chúng được đúc và lưu hành cho đến khi có
Đạo luật đúc tiền 1857. Vào thế kỷ XVIII, vì đô la Tây Ban Nha được sử dụng rộng rãi ở
châu Âu,
châu Mỹ và
Viễn Đông, nên nó đã được chấp nhận như một loại tiền tệ quốc tế đầu tiên trong lịch sử.
[2][3][4] Ngoài
Đô la Mỹ, một số loại tiền tệ khác, chẳng hạn như
Đô la Canada,
Yên Nhật,
Nhân dân tệ của
Trung Quốc,
Peso Philippines và các loại tiền tệ ở
Nam Mỹ, ban đầu đều dựa trên tiêu chuẩn của đồng đô la Tây Ban Nha và đồng bạc
8 real của các thuộc địa của Tây Ban Nha.
[5] Người ta thường chấp nhận rằng, biểu tượng của đồng đô la hiện nay ($) được tạo ra từ hình tượng của 2 chiếc cột và dải ruy băng cuốn quanh cột trên mặt trước đồng Hispan (8 real Tây Ban Nha).
[6]Thuật ngữ
Peso trong tiếng Tây Ban Nha để chỉ mệnh giá 8 real và nó đã trở thành tiêu chuẩn cho các loại tiền tệ ở các thuộc địa cũ của
Tây Ban Nha, bao gồm:
Argentina,
Bolivia,
Chile,
Colombia,
Costa Rica,
Cuba,
Dominica,
Ecuador,
Guatemala,
Honduras,
Mexico,
Nicaragua,
Paraguay,
Philippine,
Puerto Rico,
Peru,
El Salvador,
Uruguay và
Venezuela. Trong số này, "peso" vẫn là tên tiền tệ chính thức ở
Argentina,
Chile,
Colombia,
Cuba,
Cộng hòa Dominica,
Mexico,
Philippines và
Uruguay.Hàng triệu đô la Tây Ban Nha đã được đúc trong suốt vài thế kỷ. Chúng là một trong những đồng tiền được lưu hành rộng rãi nhất trong thời kỳ thuộc địa ở châu Mỹ, và vẫn được sử dụng ở Bắc Mỹ và Đông Nam Á vào thế kỷ 19.